Nói Thiên Long Sơn không nhận gì hết thì nó hơi ngã mạn, sư phụ Kiệt chỉ nhận mà nhận cái lòng, nhận cục đá, nhận chậu hoa, nhận công đức như đồ chay, chén, bát, nĩa,...hay mọi người có thể góp công đức vào việc xây dựng Thiên Long Sơn.
Sư phụ Kiệt không nhận tiền gây quỹ, hỗ trợ quyên góp từ mọi người.
Ngoài kia, có nhiều nhóm Thiên Ma giáo giả danh Thiên Tâm đạo để lợi dụng lòng tin lấy tiền từ mọi người, vì thế, các đệ tử họ Thiên hãy cẩn thận và luôn nhớ rằng Thiên Tâm không nhận tiền của bất kì ai.
Sấm cơ tuyển chọn
Kính mời anh chị cùng nghe chia sẽ của ngài về sấm cơ
Xuân Hạ Tác Cuồng Thơ
XUÂN HẠ TÁC CUỒNG THƠ
Sĩ điềm tịnh tiểu-nhơn lấn-lướt,
Thời-vận hèn dụng nhược thắng cang.
Cầu cho bốn biển bằng an,
Chúc câu lai thới xóm làng vĩnh-miên.
Xưng danh hiệu nửa Tiên nửa tục,
Đứng trung-thần gạn đục tầm trong.
Gìn câu thủ cựu gia phong,
Gom nhành lá rụng vun trồng giống xưa.
Tơ lòng nhiều đoạn đẩy-đưa,
Mong ơn Phật-Thánh phước thừa cho dân.
Chúng lấy thuyết vô thần bài bác,
Quyết một ngày thông đạt địa thiên.
Chúng-sanh nghe thửa lời truyền,
Cùng nhau thảo thuận danh hiền mới thơm.
Dốc chờ ngày sen đơm nhụy trổ,
Khỏi bùn lầy tông-tổ hiển vang.
Bá-Nha hiệp mặt tao-đàn,
Tử-Kỳ trổi giọng khải hoàn bốn phương.
Lòng chạnh cảm quê-hương nghèo-ngặt,
Các nước ngoài bán mắc hàng lên.
Ơn cha nghĩa mẹ phải đền,
Một ngày hiệp mặt lập nền từ-bi.
Những mơ-ước hồi qui thượng-cổ,
Thì hết câu ái-ố gièm-pha.
Phương Nam rạng ngọc chói lòa,
Lưu-ly hổ-phách mấy tòa đài cung.
Dành cho kẻ lòng trung chánh-trực,
Quân cùng Thần náo-nức vui-tươi.
Liên-hoa đua nở nụ cười,
Rước tôi lương-đống chào người chơn tu.
Thế-gian thoát chốn ngục-tù,
Thần Tiên hiệp mặt thì cù hóa long.
Mắt nhìn thấy thần thông biến hóa,
Đức Di-Đà hiện chóa hào quang.
Việt-Nam là giống Hồng-Bàng,
Không còn hung-bạo lăng-loàn như nay.
Dòm khắp chốn rồng mây chơi giỡn,
Dân hai lòng hết bỡn Khùng-Điên.
Thiên cơ biến ảo diệu huyền,
Hiệp chung tam cõi dưới miền trần ai.
Bút nghiên hạ viết bài an lạc,
Dẫu cho người dốt nát cũng nghe.
Kìa kìa con cuốc gọi hè,
Chẳng lo gieo giống đậu, mè, bắp, khoai.
Thi tả cảnh Bồng-Lai tại thế,
Mãi chần-chờ e trễ kỳ thi.
Muôn năm Trời định khắc kỳ,
Ngặt ông thất thủ Hạ-bì khó toan.
Ta điên thuở Tam-Hoàng Thượng-cổ,
Khùng thế thời khùng lộ ngoài da.
Ghét dòng con nịnh độc xà,
Khinh-khi trung nghĩa hải hà lòng nhơn.
Đường gai gốc thiên sơn vạn hải,
Dẹp cho rồi tướng bái đàn đăng.
Tử-Nha như thể cát-đằng,
Tùng quân dựa bóng vui bằng hưng Châu.
Các nơi Tiên-trưởng đâu đâu,
Lư-bồng hội hiệp đồng chầu Thánh-vương.
Trụ kia bạo-ác phải nhường,
Võ-vương hữu đức đường đường trị dân.
Thì rõ việc Phong-Thần trở lại,
Thuyền Đông-Pha lèo lái cánh trương.
Con lành mau lại Phật đường,
Cùng Thầy cọng hưởng một vườn từ-bi.
Chớ nóng-nảy sân-si hư việc,
Phải đợi thời VUA KIỆT hồi qui.
Xử phân những đứa vô nghì,
Mới là khỏa lấp vít tỳ ngọc son.
Khuyên rán giữ cho tròn đời đạo,
Đừng cho loài cầy cáo lung-lăng.
Yêu tinh chực nuốt Đường-tăng,
May nhờ Đại-Thánh phi đằng cứu nguy.
Lôi-Âm tự đường đi chưa đến,
Nên giữa chừng kẻ mến người khinh.
Thôi thôi ta để mặc tình,
Dầu ai chê nhạo phận mình mình toan.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Hòa-Hảo, tháng Tư năm Canh Thìn - 1940 (ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ PHẬT GIÁO HÒA HẢO)